Nhà thơ không thấy nữa,
Đọc thơ như thấy người.
Núi lớn đầy của quý,
Một hạc trong gió trần.
Kim, hạt cải dễ cảm,
Việt Hồ khó thân nhau.
Ba Đường sau ngàn năm,
Vắng vẻ tiếng thi nhân.
Đề Vi, Lư tập hậu • 題韋盧集後 • Đề sau tập thơ của hai ông Vi, Lư
題韋盧集後
詩人不得見,
見詩如見人。
大山興寶藏,
獨鶴出風塵。
針芥易相感,
越胡難似親。
三唐千載後,
寂寞久無聞。
Đề Vi, Lư tập hậu
Thi nhân bất đắc kiến,
Kiến thi như kiến nhân.
Đại sơn hưng bảo tạng,
Độc hạc xuất phong trần.
Châm giới dị tương cảm,
Việt Hồ nan tự thân.
Tam Đường thiên tải hậu,
Tịch mịch cửu vô văn.
Lư: Lư Chiếu Lân (637-690?), và Lư Đồng đều là nhà thơ Đường có tiếng. Ở đây không biết là tác giả muốn nói nhà thơ họ Đường nào.
Bản dịch
Bản dịch của Trương Việt Linh
Khách thơ nào thấy nữa đâu,
Thấy thơ như thể thấy người nơi đây.
Non sâu kho báu chứa đầy,
Vút cao cánh hạc tung mây mịt mù.
Chung lòng thêm mến thêm ưa,
Kẻ Hồ người Việt khó đưa lại gần.
Sau Tam Đường đến ngàn năm,
Lòng thơ vắng ngắt ai bằng hai ông.
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn
Nhà thơ chẳng thấy mặt đâu,
Đọc thơ như thấy người xưa nơi này.
Non cao của quý chất đầy,
Phong trần một hạc lượn bay trên đồng.
Chung lòng nên dễ cảm thông,
Việt Hồ cách trở bất đồng khó thân.
Tam Đường sau đến ngàn năm,
Đâu còn nghe tiếng thi nhân thuở nào.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |