Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng
渡淮有感文丞將 • Qua sông Hoài nhớ Văn thừa tướng
渡淮有感文丞將
山河風景尚依然,
丞相孤忠萬古傳。
一渡淮河非故宇,
重來江左更何年?
哀衷觸處鳴金石,
怨血歸時化杜鵑。
南北只今無異俗,
夕陽無限往來船。
Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng
Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên,
Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền.
Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ,
Trùng lai Giang Tả cánh hà niên?
Ai trung xúc xứ minh kim thạch,
Oán huyết qui thời hoá đỗ quyên.
Nam bắc chí kim vô dị tục,
Tịch dương vô hạn vãng lai thuyền.
Độ Hoài: sông Hoài thuộc phần đất hai tỉnh An Huy, Giang Tô. Khi nước Tống bị người Kim đánh bại, phải cắt đất để cầu hoà, lấy sông Hoài làm ranh giới. Từ sông Hoài trở lên bắc thuộc về Kim, từ sông trở xuống nam thuộc về nhà Tống. Từ ấy nhà Tống gọi là Nam Tống, còn gọi là miền Giang Tả vì ở tả ngạn sông Hoài.
Bản dịch của Quách Tấn
Non sông ngày trước cảnh còn y,
Một phiến trung hồn muôn thuở ghi.
Qua khỏi Hoài Hà đành hết đất,
Trở về Giang Tả những chờ khi.
Lòng thơm chạm trổ lời kim thạch,
Máu hận trào sôi kiếp tử qui.
Phong tục Bắc Nam rày chẳng khác,
Ghe thuyền lai vãng nhộn tà huy
Bản dịch của Trương Việt Linh
Non sông phong cảnh vẫn y nguyên
Một tấm cô trung vạn thuở truyền
Qua bến Hoài Hà đâu đất cũ
Trở về Giang Tả độ bao niên!
Lòng đau khắc cốt câu vàng đá
Máu oán quay đầu mộng đỗ quyên
Nam bắc ngày nay chung một hội
Chiều hôm xuôi ngược biết bao thuyền
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn
Sơn hà phong cảnh vẫn còn nguyên,
Thừa tướng cô trung muôn thuở truyền.
Qua khỏi sông Hoài đâu đất cũ,
Trở về Giang Tả độ bao niên?
Đau lòng chạm khắc lời vàng đá,
Máu hận dâng trào hoá đỗ quyên.
Nam bắc đến nay không tục lạ,
Chiều hôm lai vãng biết bao thuyền.
Bản dịch của Tạ Trung Hậu
Núi sông cảnh sắc vẫn còn nguyên
Thừa tướng lòng trung vẫn mãi truyền
Vừa khỏi sông Hoài đâu nước cũ
Lại về Giang Tả mấy năm liền
Mang lòng trung khắp, ngân vàng đá
Ngậm máu oan về, hoá đổ quyên
Nam Bắc bây giờ chung một mối
Chiều buông, không dứt ngược xuôi thuyền