Chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm vào
Ngọn tùng cao dưới núi
Vươn tới cổng trên cao
Người ở trong núi ấy
Quanh năm việc gì đấy?
Đàn bà xe sợi gai
Đàn ông nghề cầy cấy
Cấy cầy, khi nhàn nhã
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ tiền thuế má
Thi thơ chẳng bận bùng
Quan thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá dầy cản xe ngựa
Hoa mọc báo tin mùa
Bên ngoài hưng hoặc phế
Trong núi biết gì đâu
Cứ một năm như thế
Chẳng lúc nào lo âu
Cho nên người trong núi
Ai nấy đều sống lâu
Hoa tùng, quả bách mà ăn được
Bạc đầu, về đó chứ về đâu…
Hoàng Mai sơn thượng thôn • 黃梅山上村 • Xóm núi Hoàng Mai
黃梅山上村
山下有長松
山上有遙村
山下長松梢
正當山上門
門內所居人
窮年何所為
女事惟績麻
其男業耘耔
耘耔苟得閒
下山伐松枝
聊以足官稅
不事書與詩
催租一不到
雞犬皆熙熙
密石礙車馬
雜花當歲時
山外興與廢
山中皆不知
算來一年中
所憂無一時
所以山中人
人人皆其頤
松花柏子肯許食
白頭去此將安歸
Hoàng Mai sơn thượng thôn
Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu diêu thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính đương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kì nam nghiệp vân tỉ
Vân tỉ cẩu đắc gian
Hạ sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mã
Tạp hoa đương tuế thì
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kỳ di
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy
Dịch nghĩa
Dưới chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Cao ngang cổng trên núi
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm làm gì?
Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai
Việc đàn ông là cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp cho quan
Không bận sách cùng thơ
Quan đòi thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá kín dầy cản xe ngựa
Các loại hoa cho biết mùa trong năm
Sự hưng phế bên ngoài núi
Người ở trong núi đều không biết
Tính lại suốt năm
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Người người sống lâu trăm tuổi
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa
Bản dịch của Đặng Thế Kiệt
Bản dịch của Trương Việt Linh
Chân non có dãy thông cao
Trên non có một thôn nào xa xa
Thông dài chân núi vươn ra
Vừa ngang tầm với cổng nhà trên non
Những người sống ở trong thôn
Suốt năm quanh quẩn làm công việc gì
Đàn bà chăm chút xe gai
Đàn ông lo việc cấy cày sớm hôm
Cày bừa chăm bón vừa xong
Rủ nhau xuống núi chặt cành cây thông
Cốt tìm nạp thuế quan ông
Quanh năm sách vở cũng không ngó ngàng
Người không đốc thuế tới làng
Rộn ràng gà chó cũng tràn niềm vui
Đá ngăn xe ngựa tới lui
Nhìn trăm hoa biết đổi thay bốn mùa
Ngoài non bao chuyện hơn thua
Trong non chẳng biết giỡn đùa như không
Suốt năm vui vẻ ung dung
Âu lo chẳng chút bợn lòng mảy may
Vui sao người ở nơi nầy
Tuổi trời hưởng được trăm đầy an nhiên
Hoa tùng hạt bách nấu ăn
Về đâu đầu bạc chi bằng về đây
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn
Dưới chân núi tùng già
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Vươn tới cổng trên cao
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm sống làm sao?
Đàn bà xe sợi gai
Đàn ông lo cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp quan
Không bận sách thơ cùng
Quan thuế mà không đến
Gà chó vui nhởn nhơ
Đá kín dầy cản xe
Hoa nở cho biết mùa
Sự hưng phế bên ngoài
Người trong núi không biết
Tính lại suốt năm dài
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Thường trăm tuổi sống lâu
Ăn được quả bách hoa tùng?
Còn đi đâu nữa cuối cùng về đây.
Bản dịch của Đào Nghi
Dưới núi tùng cao vút.
Trên núi làng xa thay.
Dưới núi ngọn tùng cao.
Ngang cổng làng trên núi.
Những người ở trong cổng.
Cả năm làm gì đây?
Đàn bà lo kéo sợi.
Đàn ông nghề cuốc cày.
Cuốc cày được nhàn rỗi.
Xuống núi chặt cành cây.
Cốt thuế quan đủ nộp.
Sách thơ chẳng đụng tay.
Đốc thuế người không tới.
Gà chó cũng vui vầy.
Đá nhiều ngăn xe ngựa.
Trông hoa biết mùa ngay.
Việc mất còn ngoài núi.
Người trong núi không hay.
Cả năm tính toán lại.
Chả phải lo một ngày.
Vì vậy người trong núi.
Người thọ cũng lạ thay.
Hoa tùng, hạt bách mà ăn được.
Đầu bạc đi đâu bằng về đây?
Danh mục: Thơ Nguyễn Du |