“Cầm đài” sách cũ chép Kê Khang
Người mất, đàn tiêu, đài bỏ hoang
Văn vũ bảy dây thôi bặt tiếng
Đông tây hai Tấn cũng mù tăm
Trời cho tính trẻ không hề đổi
Ai nhớ làng say có đến thăm
Bài nhạc Quảng Lăng không kẻ nối
Tì bà điệu mới nửa Hồ Khương
Kê Khang cầm đài • 嵇康琴臺 • Đài gảy đàn của Kê Khang
嵇康琴臺
琴臺古跡記嵇康,
人死琴亡臺亦荒。
文武七絃終寂寂,
東西兩晉亦茫茫。
至今不朽惟童性,
此後何人到醉鄉。
嘆息廣陵絃絕後,
琵琶新譜半胡姜。
Kê Khang cầm đài
Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn vũ thất huyền chung tịch tịch,
Đông tây lưỡng Tấn diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo tuý hương.
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương.
Dịch nghĩa
Sách xưa ghi “Cầm đài” là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.
Bản dịch của Đặng Thế Kiệt
Bản dịch của Hạt Cát
Cầm đài xưa gọi Kê Khang,
Theo người đàn mất đài hoang bao giờ.
Bảy dây văn vũ như tờ,
Ðông Tây hai Tấn mịt mờ tăm hơi.
Nay còn tính trẻ mà chơi,
Làng say sau nữa ai người tới lui.
Quảng Lăng! Ôi! Thất truyền rồi!
Tì bà khúc mới nửa vời Hồ Khương.
Bản dịch của Nguyễn Tam
Cầm Ðài truyền thuyết của Kê Khang
Người khuất đàn tan, đài bỏ hoang
Văn vũ bảy dây đà lặng ngắt
Ðông Tây hai Tấn cũng điêu tàn
Chỉ còn tính trẻ truyền lưu thế
Ðã hết dân say đến nhập làng
Ôi! Khúc Quảng Lăng từ bặt tiếng
Tỳ bà điệu mới, nửa Hồ Khương.
Bản dịch của Trương Việt Linh
Đài cầm xưa nhớ Kê Khang trước
Người chết rồi đàn nát đài hư
Bảy dây văn võ còn đâu
Đông tây hai Tấn rầu rầu giấc mơ
Tính hồn nhiên đến giờ bất hủ
Chốn làng say sau nữa còn ai?
Quảng Lăng đàn đứt dây rồi
Tì bà điệu mới, nửa lời Hồ Khương.
Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar
Cầm đài tích cũ nhớ Kê Khang
Người chết đàn tiêu đài vắng hoang
To nhỏ bảy dây luôn lặng bặt
Đông Tây hai Tấn cũng suy tàn
Đến nay chẳng mất duy hồn trẻ
Hậu thế ai người say rượu “làng”
Than khúc Quảng Lăng không kẻ nối
Tì bà nửa điệu rợ Khương vang.
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn
“Cầm đài” đời Tấn của Kê Khang.
Đàn mất khuất người đài bỏ hoang,
Văn vũ bảy dây cùng tắt ngấm,
Đông, Tây Tấn cũng đã suy tàn.
Đến nay tính trẻ còn tồn tại,
Hậu thế ai người say nhập làng.
Tiếc nhạc Quảng Lăng nay đã mất,
Tì bà, một nửa điệu Hồ Khương.
Danh mục: Thơ Nguyễn Du |