Thứ Sáu, 11/10/2024 - 11:47

Kê Khang cầm đài • 嵇康琴臺 • Đài gảy đàn của Kê Khang

嵇康琴臺

琴臺古跡記嵇康,
人死琴亡臺亦荒。
文武七絃終寂寂,
東西兩晉亦茫茫。
至今不朽惟童性,
此後何人到醉鄉。
嘆息廣陵絃絕後,
琵琶新譜半胡姜。

Kê Khang cầm đài

Cầm đài cổ tích ký Kê Khang,
Nhân tử cầm vong đài diệc hoang.
Văn vũ thất huyền chung tịch tịch,
Đông tây lưỡng Tấn diệc mang mang.
Chí kim bất hủ duy đồng tính,
Thử hậu hà nhân đáo tuý hương.
Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu,
Tỳ bà tân phổ bán Hồ Khương.

Dịch nghĩa

Sách xưa ghi “Cầm đài” là của Kê Khang
Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
Sau đó ai là người đến với làng say?
Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương.

Kê Khang (233-262) tự Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Ðàn xong nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”. Truyện Kiều có câu: “Kê Khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành Vân”. Cầm đài là chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều có câu: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”.

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

“Cầm đài” sách cũ chép Kê Khang
Người mất, đàn tiêu, đài bỏ hoang
Văn vũ bảy dây thôi bặt tiếng
Đông tây hai Tấn cũng mù tăm
Trời cho tính trẻ không hề đổi
Ai nhớ làng say có đến thăm
Bài nhạc Quảng Lăng không kẻ nối
Tì bà điệu mới nửa Hồ Khương

Bản dịch của Hạt Cát

Cầm đài xưa gọi Kê Khang,
Theo người đàn mất đài hoang bao giờ.
Bảy dây văn vũ như tờ,
Ðông Tây hai Tấn mịt mờ tăm hơi.
Nay còn tính trẻ mà chơi,
Làng say sau nữa ai người tới lui.
Quảng Lăng! Ôi! Thất truyền rồi!
Tì bà khúc mới nửa vời Hồ Khương.

Bản dịch của Nguyễn Tam

Cầm Ðài truyền thuyết của Kê Khang
Người khuất đàn tan, đài bỏ hoang
Văn vũ bảy dây đà lặng ngắt
Ðông Tây hai Tấn cũng điêu tàn
Chỉ còn tính trẻ truyền lưu thế
Ðã hết dân say đến nhập làng
Ôi! Khúc Quảng Lăng từ bặt tiếng
Tỳ bà điệu mới, nửa Hồ Khương.

Bản dịch của Trương Việt Linh

Đài cầm xưa nhớ Kê Khang trước
Người chết rồi đàn nát đài hư
Bảy dây văn võ còn đâu
Đông tây hai Tấn rầu rầu giấc mơ
Tính hồn nhiên đến giờ bất hủ
Chốn làng say sau nữa còn ai?
Quảng Lăng đàn đứt dây rồi
Tì bà điệu mới, nửa lời Hồ Khương.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Cầm đài tích cũ nhớ Kê Khang
Người chết đàn tiêu đài vắng hoang
To nhỏ bảy dây luôn lặng bặt
Đông Tây hai Tấn cũng suy tàn
Đến nay chẳng mất duy hồn trẻ
Hậu thế ai người say rượu “làng”
Than khúc Quảng Lăng không kẻ nối
Tì bà nửa điệu rợ Khương vang.

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

“Cầm đài” đời Tấn của Kê Khang.
Đàn mất khuất người đài bỏ hoang,
Văn vũ bảy dây cùng tắt ngấm,
Đông, Tây Tấn cũng đã suy tàn.
Đến nay tính trẻ còn tồn tại,
Hậu thế ai người say nhập làng.
Tiếc nhạc Quảng Lăng nay đã mất,
Tì bà, một nửa điệu Hồ Khương.

 
                                                              hhhDanh mục: Thơ Nguyễn Du


Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *