Kê thị trung từ • 嵇侍中祠 • Đền thờ ông thị trung họ Kê

嵇侍中祠

古廟松篁一帶幽,
清風猶似竹林秋。
廣陵調絕餘聲響,
正氣歌成立懦夫。
亙古未乾流血地,
奇忠能破問蟆愚。
可憐江左多名士,
空對江山泣楚囚。

Kê thị trung từ

Cổ miếu tùng hoàng nhất đới u,
Thanh phong do tự Trúc Lâm thu.
Quảng Lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng,
Chính khí ca thành lập noạ phu.
Cắng cổ vị can lưu huyết địa,
Kỳ trung năng phá vấn ma ngu.
Khả liên Giang tả đa danh sĩ,
Không đối giang san khấp Sở tù.

Kê thị trung tức Kê Thiệu 嵇紹 (253-304), con Kê Khang 嵇康, làm chức thị trung đời Tấn Huệ Ðế 晉惠帝 (290-306). Khi Huệ Ðế bị giặc đuổi, tên bắn như mưa, Kê Thiệu lấy thân che cho vua, chết, máu phun vào cả áo vua.

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Miếu cổ xanh um hàng tùng trúc,
Vẻ thanh thu rất mực Trúc Lâm.
Quảng Lăng đàn cũ vọng âm,
Bài ca Chính khí động tâm ươn hèn.
Máu mãi còn lan trên mặt đất,
Tấm lòng trung cảm được vua ngu.
Khá thương Giang Tả sĩ phu,
Non sông bắt chước Sở tù khóc suông.

Bản dịch của Trương Việt Linh

Tùng trúc biếc, xanh um miếu cổ,
Trúc lâm xưa nguyên vẻ thanh cao.
Quảng Lăng khúc cũ còn lưu,
Bài ca ‘Chính Khí’ kẻ ngu sáng lòng.
Nghìn năm vẫn  máu trung chưa ráo,
Tiếng ếch kêu phá tội hỏi xằng.
Thương thay Giang Tả danh nhân,
Mắt nhìn đất nước khóc suông Sở tù.

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Miếu cổ trúc tùng một dãy mờ,
Trúc lâm nguyên vẻ xưa thanh thu.
Quảng Lăng khúc cũ còn âm hưởng,
Chính Khí bài ca sáng thất phu.
Vẫy máu nghìn năm trung chẳng ráo,
Ếch kêu phá tội hỏi người ngu.
Thương thay Giang Tả nhiều danh sĩ,
Chẳng đáp giang sơn khóc Sở tù.