Nàng Trác theo trai, Thái đổi chồng
Tơ bay hoa rụng nói thêm nhàm
Bia ghi liệt nữ nghìn năm rạng
Danh sáng cương thường một cửa gương
Dưới đất nhìn nhau không thẹn mặt
Bên sông đâu chốn viếng trinh hồn
Thời bình bao kẻ râu như kích
Nói hiếu bàn trung chỉ tự tôn
Tam Liệt miếu • 三烈廟 • Miếu ba liệt nữ
三烈廟
蔡女生雛卓女奔,
落花飛絮不勝言。
千秋碑碣顯三烈,
萬古綱常屬一門。
地下相看無愧色,
江邊何處吊貞魂。
清時多少鬚如戟,
說孝談忠各自尊。
Tam Liệt miếu
Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn,
Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn.
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
Địa hạt tương khan vô quí sắc,
Giang biên hà xứ điếu trinh hồn?
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn!
Dịch nghĩa
Nàng Thái sinh con, nàng Trác theo trai
Hoa rụng tơ bay nói sao cho xiết
Bia kệ nghìn năm tôn thờ ba người đàn bà tiết liệt
Cương thường từ ngàn xưa gom chung vào một nhà
Dưới đất nhìn nhau, sắc mặt không hổ thẹn
Bên sông, đâu nơi viếng hồn trinh?
Thời bình lắm kẻ vểnh râu như ngọn kích
Nói hiếu bàn trung đều để suy tôn mình
Bản dịch của Đặng Thế Kiệt
Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn
Nàng Thái sinh con nàng Trác trốn
Tơ bay hoa rụng xiết bao tình
Ngàn thu bia đá nêu Tam liệt
Muôn thuở cương thường gộp một dinh
Dưới đất gặp nhau không mặt thẹn
Bên sông đâu nhỉ viếng hồn trinh
Thời bình bao kẻ lên râu thế?
Tán hiếu bàn trung tự bốc mìnhTác giả chú thích như sau: Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà Minh (1506 – 1521) Lưu Thời Cử đi nhậm chức. Thuyền tới đây bị bọn cướp giết. Vợ là Trương thị, thiếp là Quách thị, con gái là Lưu thị, không chịu nhục, nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia Tĩnh (1522 – 1526) được biểu dương và lập miếu thờ
Bản dịch của Trương Việt Linh
Kẻ sinh con, kẻ lấy trai
Hoa bay hoa rụng lòng ai não buồn
Bia đề “Tam liệt’ rạng gương
Một nhà giữ vẹn cương thường muôn thu
Dưới mồ nhìn chẳng hổ nhau
Bờ sông đâu đó viếng người kiên trinh
Vểnh râu bao kẻ thời bình
Bàn trung luận hiếu hợm mình khoe cao.
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn
Sinh con nàng Thái, Trác theo trai,
Sao xiết nói cho hoa rụng bay.
Bia kệ nghìn năm thờ liệt nữ,
Cương thường ngàn thuở một nhà thay.
Nhìn nhau dưới đất không e thẹn,
Đâu chốn bên sông viếng nữ thần?
Lắm kẻ thời bình râu vểnh nhọn,
Bàn trung luận hiếu để tôn mình.
Danh mục: Thơ Nguyễn Du |